Nhờ chất lượng và sự ưa chuộng của người tiêu dùng, Công ty TNHH sản xuất và thương mại khóa Việt Pháp liên tục được vinh danh với nhiều bằng khen, chứng nhận, cúp vàng tại các giải thưởng uy tín trong nhiều năm liền. đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển
Năm 2019, hàng loạt chính sách nhân sự được điều chỉnh với sự nỗ lực của FPT Telecom, từ đó đã tạo ra những chuyển biến tích cực. Với sự nỗ lực của các công ty thành viên và FPT Telecom - đơn vị có nguồn lực chủ chốt thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin, hàng
Nhu cầu xã hội Cách mạng công nghiệp 4.0 giúp công nghệ thông tin và viễn thông (ICT) xâm nhập mọi mặt đời sống kinh tế xã hội. ICT vì thế mà dần trở thành một trong những mũi nhọn chiến lược phát triển của đất nước. Trước tình hình đó, Trường Đại học Kinh […]
nhiệm kỳ 2022 - 2027, ủy ban đoàn kết công giáo tỉnh nghệ an đề ra mục tiêu, phương hướng: phát huy vai trò của ủy ban đoàn kết công giáo tỉnh trong công tác tuyên truyền, vận động đồng bào công giáo tỉnh nghệ an tích cực thi đua xây dựng và bảo vệ tổ quốc; thực hiện tốt các chủ trương của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, đường hướng mục …
Cụ thể, sẽ công khai tất cả các thông tin trong hoạt động lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư. Bao gồm cả thông tin về nội dung, kết quả thực hiện hợp đồng của nhà thầu, nhà đầu tư trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia và khuyến khích đăng tải trên các phương
Nhân dịp kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống của Ngành Xuất bản, In và Phát hành sách Việt Nam (10/10/1952-10/10/2022), sáng 10/10, tại Nhà Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã gặp mặt các cán bộ lão thành và 86 đại biểu tiêu biểu trong lĩnh vực xuất bản, in và phát hành sách.
6LiO. Với sự phát triển không ngừng nghỉ, hiện nay công nghệ thông tin đã bao phủ khắp thế giới, trở nên thân thiết với con người. Vậy công nghệ thông tin ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta như thế nào? Hãy cùng mình tìm hiểu những ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực mà nó mang lại nhé! Những lợi ích của công nghệ thông tin mang lại Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã mang lại cho con người rất nhiều lợi ích tuyệt vời sau đây Mua sắm dễ dàng hơn với sự phát triển của công nghệ thông tin Trước đây khi có nhu cầu mua sắm, người tiêu dùng phải trực tiếp đến cửa hàng, thì ngày nay bạn chỉ cần ngồi ở nhà và đặt mua. Bất kể là sản phẩm gì, từ quần áo, điện tử cho đến việc đi chợ… cũng có thể mua online. Chỉ cần vài cú click chuột, những sản phẩm ấy sẽ được giới thiệu đi kèm hình ảnh và cả đánh giá từ người dùng. Công nghệ thông tin phát triển giúp mua sắm dễ dàng hơn Di chuyển linh hoạt hơn với ứng dụng đặt xe. Các ứng dụng di chuyển nổi tiếng như Uber, Grab đã khẳng định thế mạnh của mình. Nhận thấy tính ưu việt của công nghệ này, các hãng taxi truyền thống cũng ra mắt những ứng dụng riêng bắt nhịp làn sóng mới. Nhờ áp dụng công nghệ để giảm thiểu các chi phí nhân sự như tổng đài, điều phối viên,… Ăn uống nhanh chóng, tiện lợi Giờ đây không khó để bạn tìm một món ăn ngon với mức giá hợp lý. Bạn chỉ việc ngồi tại nhà, đặt mua đồ ăn online và sẽ được giao hàng mang đến tận nơi. Bởi hiện nay các ứng dụng đặt thức ăn trực tuyến như Vietnammm, DeliveryNow,… đã bắt đầu bước vào cuộc sống của chúng ta. Ứng dụng cho phép người dùng lựa chọn hàng loạt các quán ăn, nhà hàng từ món Châu Á, Châu Âu, Việt Nam, cho đến các món ăn bình dân, đặc sản,… Chủ động việc học tập trên internet Công nghệ thông tin còn mang đến những lợi ích tuyệt vời cho việc học tập phát triển kiến thức và kỹ năng. Các ứng dụng học tập trực tuyến không những giúp bạn có thể chủ động về thời gian, chi phí mà còn phá vỡ rào cản về không gian và thời gian, giúp bạn học mọi lúc mọi nơi. Liên lạc, kết nối gần nhau hơn bởi sự phổ cập của thiết bị công nghệ Chỉ với một chiếc smartphone hay laptop là bạn có thể trò chuyện, trao đổi công việc với đối tác, khách hàng xuyên quốc gia. Vừa tiết kiệm được thời gian, thu hẹp khoảng cách mà còn dễ dàng xử lý những vấn đề quan trọng một cách đơn giản, nhanh chóng. Không những thế, bạn có kết nối với bạn bè, người thân dù đang cách xa nhau hàng ngàn cây số, giúp mối quan hệ trở nên thân thiết hơn. Bên cạnh mặt lợi ích thì sự phát triển của ngành công nghệ thông tin cũng có nhiều tác hại không mong muốn. Dưới đây là một số tác hại của công nghệ Gây mất ngủ Công nghệ thông tin đã ảnh hưởng đến đồng hồ sinh học của mỗi người. Các nhà khoa học nghiên cứu và chỉ ra rằng, ánh sáng có sắc tố màu xanh được phát ra từ các đồ dùng công nghệ như smartphone, tablet, laptop, desktop... có thể ngăn chặn cơ thể tiết ra hormone melatonin vào ban đêm. Công nghệ thông tin có nhiều tác hại nếu không sử dụng đúng cách Ánh sáng xanh này làm gián đoạn đồng hồ sinh học của bạn và khiến bạn không thể có được một thời gian biểu phù hợp. Điều này có thể gây mất ngủ từ đó làm giảm khả năng ghi nhớ của não bộ. Giảm trí nhớ khi sử dụng thiết bị công nghệ quá nhiều Bất kỳ một hành động nào trong quá trình làm việc trên mạng như nói chuyện, kiểm tra email, nhắn tin,…cũng có thể xóa toàn bộ thông tin đó trước khi chúng được lưu lại. Vì vậy, bạn không nên làm quá nhiều việc một lúc trên internet. Bên cạnh đó, làm việc với máy tính, hay dùng smartphone nhiều khiến con người bị thiếu ngủ, mệt mỏi dẫn đến hiện tượng, tình trạng quên mau hơn. Mất tập trung bởi vô vàn thứ hấp dẫn trên internet Đọc sách, học trực tuyến rất tiện lợi nhưng nó cũng có nhiều tác hại. Chẳng hạn khi bạn đọc một bài báo mà xung quanh có rất nhiều hình ảnh quảng cáo. Điều này khiến bạn nhanh chóng bị phân tâm và mất tập trung vào vấn đề mình đang đọc. Làm sao để hạn chế những ảnh hưởng xấu do công nghệ thông tin mang lại Nếu không áp dụng công nghệ thông tin vào cuộc sống, thì bạn đúng là kiểu người “quê mùa”. Tuy nhiên khi dùng, bạn cần kiểm soát tốt bản thân bằng cách - Hạn chế sử dụng internet vào những công việc vô ích như chơi game, xem phim hay theo dõi các chương trình truyền hình. Vì những việc này sẽ làm mất thời gian và còn gây ảnh hưởng đến thần kinh và mắt. - Rèn luyện kĩ năng tìm kiếm hiệu quả nguồn dữ liệu trên mạng và tham gia các nhóm tích cực, tiến bộ để tránh bị lôi kéo vào các cuộc bàn luận vô bổ. - Không truy cập những trang web có nội dung bạo lực, đồi trụy, phản động,... Nên có chính kiến rõ ràng để không bị lôi kéo bởi các nhóm hay tổ chức không minh bạch để tránh bị lợi dụng. Tăng cường hoạt động chia sẻ những thông tin dữ liệu hữu ích và vui chơi, giải trí lành mạnh.. Trên đây là những ảnh hưởng của công nghệ thông tin đến cuộc sống của con người, cũng như cách sử dụng công nghệ thông tin hiệu quả. Bài viết hi vọng đã cung cấp tin tức hữu ích cho bạn đọc. >> Đọc thêm Điểm sàn của ngành công nghệ thông tin những năm gần đây.
TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của công nghệ thông tin và truyền thông CNTT-TT đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Bằng việc sử dụng dữ liệu bảng theo phương pháp mô men tổng quát GMM trong giai đoạn 2009-2019. Các kết quả từ mô hình kinh tế lượng cho thấy ngoại trừ điện thoại cố định, các biến công nghệ thông tin và truyền thông khác như điện thoại di động, sử dụng internet và sử dụng băng thông rộng là những yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh, thành phố. Ngoài ra, sự vượt trội của các tỉnh thành khu vực miền Trung so với khu vực miền Bắc và khu vực miền Nam trong các lĩnh vực sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Từ góc độ chính sách, kết quả cho thấy các nhà chức trách ở Việt Nam nên tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng CNTT-TT. Để tạo ra lợi ích từ các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các nhà hoạch định chính sách nên ban hành một số chính sách quan trọng cho phép phát triển các lĩnh vực tài chính, cung cấp một môi trường pháp lý và thể chế thuận tiện hơn, tăng cường kinh tế, tăng cường ưu tiên cho chính phủ và phát triển cơ sở hạ tầng. Từ khóa Công nghệ thông tin, truyền thông, GMM. ABSTRACT The study aimed to assess the impact of information and communication technology ICT on the economic growth of Viet Nam. By using panel data according to the Generalized Methods of Moments GMM in the period of 2009-2019. The results from the econometric model show that with the exception of landline telephones, other information and communication technology variables such as mobile phones, internet usage and broadband usage are the key factors economic growth in provinces and cities. In addition, the relative dominance of the provinces in the Central region compared to the North and the South in the areas of internet usage and broadband application. From a policy perspective, the results suggest that the authorities in Vietnam should increase their investment in ICT infrastructure. In order to benefit from factors that promote economic growth, policy makers should enact a number of important policies that enable the development of financial sectors, providing a legal and regulatory environment. more convenient mechanisms, increase the economy, increase government priorities and develop infrastructure. Ngày nhận bài 20/01/2020 Ngày nhận bài sửa sau phản biện 15/6/2020 Ngày chấp nhận đăng 26/02/2021 1. GIỚI THIỆU Công nghệ phát triển và không ngừng phát triển kể từ khi bắt đầu lịch sử của nhân loại. Vào những năm 2000, công nghệ đã chuyển đổi thành một cấu trúc chứa một lượng lớn thông tin. Trong những thập kỷ qua, sự phổ biến lớn của công nghệ thông tin và truyền thông CNTT-TT đã tạo ra một sự chuyển đổi mạnh mẽ của thế giới thành một xã hội thông tin. Nhờ cơ sở hạ tầng CNTT như điện thoại, truyền hình, điện thoại di động, internet và băng thông rộng, người dân và các chính phủ hiện có quyền truy cập thông tin, kiến thức và trí tuệ tốt hơn nhiều so với trước đây về quy mô, phạm vi và tốc độ. Sự phổ biến của CNTT đã cải thiện đáng kể hiệu quả của việc phân bổ nguồn lực, giảm đáng kể chi phí sản xuất và thúc đẩy nhu cầu và đầu tư lớn hơn nhiều trong tất cả các lĩnh vực kinh tế [5, 9, 13]. Về tầm quan trọng ngày càng tăng của CNTT và cách thức biến đổi thế giới, nhiều học giả và nhà nghiên cứu đã tập trung vào nghiên cứu tác động của CNTT đến tăng trưởng kinh tế ở cấp độ công nghiệp, ở cấp quốc gia và ở cấp độ quốc gia. Một số công trình lý thuyết và thực nghiệm đã được thực hiện để trả lời câu hỏi CNTT-TT có tác động gì đến tăng trưởng kinh tế? Các tài liệu cho thấy rằng CNTT-TT đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ này đã tạo ra kết quả hỗn hợp [17]. Trong khi một số nghiên cứu thực nghiệm đã khẳng định rằng khuếch tán CNTT đóng vai trò tích cực và có ý nghĩa trong việc cải thiện tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các nước phát triển [7, 8], các nghiên cứu khác cho thấy tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước và các khu vực trên thế giới bị ảnh hưởng tiêu cực bởi sự khuếch tán của CNTT [13, 20]. Tập trung vào các nước đang phát triển, nhiều nghiên cứu trước đây đã tiến hành các công trình thực nghiệm sử dụng các mô hình kinh tế lượng khác nhau và sử dụng dữ liệu xuyên quốc gia để hiểu mối quan hệ giữa khuếch tán CNTT và tăng trưởng kinh tế [1, 13, 17]. Những nghiên cứu này tạo ra kết quả mơ hồ và có sự bất đồng lớn giữa các nhà nghiên cứu về hiệu quả của tăng trưởng mạnh mẽ do sự khuếch tán của CNTT trong bối cảnh các nước đang phát triển. Do đó, vấn đề này vẫn còn mở để điều tra. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 57 - Số 1 02/2021 Website P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM IMPACT OF INFORMATION AND COMMUNICATION TECHNOLOGY ON ECONOMIC GROWTH IN VIETNAM Hà Thành Công TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm đánh g iá tác động của công nghệ thông tin và truyềthông CNTT-TT đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Bằn g việc sử dụng dliệu bảng th eo phương pháp mô men tổng quát GMM trong giai đoạn 2009 -2019. Các kết qu ả từ mô h ình kinh tế lượn g cho thấy ngoại trừ điện thoại cốđịnh, các biến công nghệ thông tin và truyền thông khác như điện thoạđộng, sử dụng internet và sử dụng băng thông rộng là những yếu tố thúc đẩy tăn g trưởng kinh tế ở các tỉnh, thành ph ố. Ngoài ra, sự vượt trội củcác tỉnh thành khu vực miền Tr ung so với khu vực miền Bắc và kh u vực miềNam trong các lĩnh vực sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Từ độ chính sách, kết quả cho thấy các nhà chức trách ở Việt Nam nên tăng đầvào c ơ sở hạ tầng CNTT-TT. Để tạo ra lợi íc h từ các yếu tố thúc đ ẩy tăn g trưởkinh tế, các nhà hoạc h định chính sách n ên ban hành một số trọng cho phép phát triển các lĩnh vực tài chính, cung cấp một môi trườpháp lý và thể chế thuận tiện hơn, tăng cường kinh tế, tăng cườchính phủ và phát tr iển cơ sở hạ tầ ng. Từ khóa Công nghệ thông tin, truyền thông, GMM. ABSTRACT The study aimed to assess the impact of information and communication technology ICT on the economic growth of Viet Nam. By using panel dat a according to the Generalized Methods of Moments GMM in the period of 2009 -2019. The results from the econometric model show that with the exception of landline telephones, other information and communication technology variabl es such as mobile phones, internet usage and broadband usage are the key factors economic growth in provinces and cities. In addition, the relative dominance of the provinces in the Central region compared to the North and the South in the areas of internet usage and broadband application. From a policy perspective, the results suggest that the authorities in Vi etnam should increase their investment in ICT infrastructure. In order to benefit from factors that promote economic growth, policy makers should enact a number of important policies that enable the development of financial sectors, providing a legal and regulatory environment. more convenient mechanisms, increase government priorities and develop infrastructure. Keywords Information, technology, communication, GMM. Khoa Quản lý kinh doanh, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội Email hathanhcong Ngày nhận bài 20/01/2020 Ngày nhận bài sửa sau phản biện 15/6/2020 Ngày chấp nhận đăng 26/02/2021 1. GIỚI THIỆU Công nghệ phát triển và không ngừng phát triển kể từ khi bắt đầu lịch sử của nhân loại. Vào những năm 2000, công nghệ đã chuyển đổi thành một cấu trúc chứa một lượng lớn thông tin. Trong những thập kỷ qua, sự phổ biến lớn của công nghệ thông tin và truyền thông CNTT-TT đã tạo ra một sự chuyển đổi mạnh mẽ của thế giới thành một xã hội thông tin. Nhờ cơ sở hạ tầng CNTT như điện thoại, truyền hình, điện thoại di động, internet và băng thông rộng, người dân và các chính phủ hiện có quyền truy cập thông tin, kiến thức và trí tuệ tốt hơn nhiều so với trước đây về quy mô, phạm vi và tốc độ. Sự phổ biến của CNTT đã cải thiện đáng kể hiệu quả của việc phân bổ nguồn lực, giảm đáng kể chi phí sản xuất và thúc đẩy nhu cầu và đầu tư lớn hơn nhiều trong tất cả các lĩnh vực kinh tế [5, 9, 13]. Về tầm quan trọng ngày càng tăng của CNTT và cách thức biến đổi thế giới, nhiều học giả và nhà nghiên cứu đã tập trung vào nghiên cứu tác động của CNTT đến tăng trưởng kinh tế ở cấp độ công nghiệp, ở cấp quốc gia và ở cấp độ quốc gia. Một số công trình lý thuyết và thực nghiệm đã được thực hiện để trả lời câu hỏi CNTT-TT có tác động gì đến tăng trưởng kinh tế? Các tài liệu cho thấy rằng CNTT-TT đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ này đã tạo ra kết quả hỗn hợp [17]. Trong khi một số nghiên cứu thực nghiệm đã khẳng định rằng khuếch tán CNTT đóng vai trò tích cực và có ý nghĩa trong việc cải thiện tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các nước phát triển [7, 8], các nghiên cứu khác cho thấy tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước và các khu vực trên thế giới bị ảnh hưởng tiêu cực bởi sự khuếch tán của CNTT [13, 20]. Tập trung vào các nước đang phát triển, nhiều nghiên cứu trước đây đã tiến hành các công trình thực nghiệm sử dụng các mô hình kinh tế lượng khác nhau và sử dụng dữ liệu xuyên quốc gia để hiểu mối quan hệ giữa khuếch tán CNTT và tăng trưởng kinh tế [1, 13, 17]. Những nghiên cứu này tạo ra kết quả mơ hồ và có sự bất đồng lớn giữa các nhà nghiên cứu về hiệu quả của tăng trưởng mạnh mẽ do sự khuếch tán của CNTT trong bối cảnh các nước đang phát triển. Do đó, vấn đề này vẫn còn mở để điều tra. P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY Website Vol. 57 - No. 1 Feb 2021 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY Trong số các nước đang phát triển đang được điều tra, một số nghiên cứu gần đây cho thấy mối quan tâm đặc biệt trong việc nghiên cứu ảnh hưởng của phổ biến CNTT đến tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển ở khu vực Trung Đông và Bắc Phi - MENA [13] và khu vực Châu Phi - SSA [2, 21]. Sự quan tâm này đã cho thấy thực tế là trong những năm gần đây, hầu hết các quốc gia MENA và SSA đã trải qua một sự đột biến mạnh mẽ trong việc sử dụng CNTT-TT, được đo lường bằng một số chỉ số như thuê bao điện thoại di động và điện thoại di động, số lượng người dùng internet và số lượng thuê bao băng thông rộng [22]. Ngoài ra, một nghiên cứu tài liệu cho thấy so với các nước phát triển và châu Á, CNTT ở Việt Nam vẫn đang còn nhiều hạn chế cần tìm hiểu và thảo luận thêm để đưa ra ý tưởng rõ ràng về tác động của khuếch tán CNTT đối với tăng trưởng kinh tế cho các tỉnh, thành phố của Việt Nam. Bài báo trình bày nghiên cứu ảnh hưởng của khuếch tán CNTT đến tăng trưởng kinh tế của 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam, được phân chia thành 3 miền Bắc - Trung - Nam, bằng cách sử dụng mô hình sai phân tổng quát GMM hai bước trong giai đoạn 2009 - 2019. Phần còn lại của bài báo được tổ chức như sau Phần 2 trình bày tổng quan tài liệu ngắn gọn về chủ đề này. Phần 3 mô tả phương pháp nghiên cứu được áp dụng. Phần 4 là kết quả và thảo luận về các kết quả được tìm thấy. Phần 5 kết luận và khuyến nghị chính sách. 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU Tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng các công cụ và sản phẩm sẽ được sử dụng để đáp ứng nhu cầu của con người ở bất kỳ quốc gia hay khu vực nào. Một phương pháp để đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế liên quan đến việc tìm hiểu liệu đã có sự gia tăng thực sự không bao gồm tăng giá trong tổng sản phẩm quốc nội GDP từ năm này sang năm khác vì GDP đại diện cho thị trường tương đương với tất cả các giá trị đo lường được sản xuất bởi một nền kinh tế. Ba chỉ số chính của tăng trưởng kinh tế là tích lũy vốn, tiến bộ công nghệ và gia tăng dân số và lực lượng lao động. Tích lũy vốn được coi là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Điều kiện quan trọng nhất cần được đáp ứng để đảm bảo sự phát triển là sự tồn tại của các khoản đầu tư đầy đủ. Và việc thực hiện đầu tư phụ thuộc vào mức tăng tiết kiệm để kiếm được từ các khoản thu. Là chỉ số thứ hai của tăng trưởng kinh tế, tiến bộ công nghệ có thể được định nghĩa là toàn bộ hệ thống thông tin, tổ chức và kỹ thuật cần thiết trong quy trình sản xuất. Với sự trợ giúp của công nghệ, có thể thu được nhiều đầu ra hơn với việc sử dụng cùng một lượng đầu vào trong bất kỳ quy trình sản xuất nào. Điều này chắc chắn sẽ mang lại tiết kiệm trong lực lượng lao động và vốn. Chỉ số cuối cùng là sự gia tăng dân số và lực lượng lao động. Với sự gia tăng dân số dẫn đến sự gia tăng tương tự lực lượng lao động, một động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế sẽ được tạo ra. Sự phát triển nhanh chóng trên toàn thế giới của CNTT trong ba thập kỷ qua đã thu hút sự chú ý ngày càng tăng của nhiều nhà kinh tế và nhà nghiên cứu, những người đã tập trung vào nghiên cứu tác động của phổ biến CNTT đến tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế phát triển và đang phát triển. Các lý thuyết đương đại nổi bật như lý thuyết Schumpeterian và lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển [19] đã nhấn mạnh hiệu quả tăng trưởng kinh tế của đầu tư vào CNTT và cũng bởi một số nghiên cứu thực nghiệm cho thấy mối quan hệ tích cực giữa đầu tư CNTT và tăng trưởng kinh tế. Những lý thuyết này cho thấy rằng dòng chảy của CNTT về phía cung của nền kinh tế cùng với các yếu tố cơ sở hạ tầng bổ sung có thể dẫn đến sự thay đổi về vốn, tạo ra sự cải thiện quy trình sản xuất thông qua tăng cường vốn và tạo ra những tiến bộ về công nghệ và chất lượng lực lượng lao động. Do đó, CNTT tạo ra giá trị gia tăng ở cấp độ doanh nghiệp và ở cấp độ ngành và do đó dẫn đến cải thiện năng suất và tăng trưởng kinh tế ở cấp quốc gia [1]. CNTT là một công cụ phái sinh, nó đòi hỏi các quốc gia có nguồn lực cần thiết để đầu tư và con người có cơ hội hưởng lợi cao hơn từ hiệu quả thúc đẩy tăng trưởng của các khoản đầu tư vào CNTT-TT. Trong khi các công trình lý thuyết đã cho thấy hiệu quả tích cực của CNTT đối với tăng trưởng kinh tế, một số nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ này đã tạo ra kết quả hỗn hợp. Một mặt, nhiều nghiên cứu đã khẳng định sự hiện diện của một tác động tích cực đáng kể của sự khuếch tán CNTT đến tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu xuyên quốc gia tập trung vào tác động của các công nghệ viễn thông như điện thoại, truyền hình đối với tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển. Roller và Waverman [16] sử dụng dữ liệu của 21 quốc gia OECD trong khoảng thời gian 20 năm 1970 - 1990; Madden và Savage [10] kiểm tra một mẫu của 27 quốc gia Trung và Đông Âu trong giai đoạn 1990-1994, cho thấy mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa đầu tư cơ sở hạ tầng viễn thông và tăng trưởng kinh tế. Một số nghiên cứu gần đây đã khẳng định sự đóng góp mạnh mẽ của các công nghệ viễn thông mới hơn như điện thoại di động, máy tính cá nhân và internet cho sự tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển [6]. Trong số các nghiên cứu xuyên quốc gia tập trung vào các nước đang phát triển, ngày càng có nhiều công trình thực nghiệm cho rằng việc phổ biến và đầu tư vào CNTT tích cực và ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia này. Sử dụng một loạt các chỉ số về CNTT-TT, bao gồm cả điện thoại di động và tỷ lệ thâm nhập điện thoại và chi phí của các cuộc gọi trong nước, Andrianaivo và Kpodar [3] đã khẳng định rằng CNTT đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế của các nước châu Phi trong giai đoạn 1988 - 2007. Tương tự, Lee và cộng sự [9] đã xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư cơ sở hạ tầng viễn thông như điện thoại cố định và điện thoại di động trong khu vực SSA. Họ đã áp dụng phương pháp GMM trên dữ liệu từ 44 quốc gia vùng Sahara trong giai đoạn 1975 - 2006. Các kết XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 57 - Số 1 02/2021 Website P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 quả đã khẳng định rằng việc mở rộng điện thoại di động là một yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế ở châu Phi cận Sahara. Bằng dữ liệu chéo từ 17 quốc gia MENA, Sassi và Goaied [17] đã tìm thấy tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê của khuếch tán CNTT được đo bằng ba chỉ số, đó là điện thoại di động, điện thoại truyền hình và internet với tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1960 - 2009. Sử dụng phương pháp véc tơ đồng kết hợp cho dữ liệu bảng, Pradhan và cộng sự [13] đã nghiên cứu bản chất của mối quan hệ nhân quả giữa cơ sở hạ tầng CNTT, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ở 21 quốc gia châu Á trong giai đoạn 2001 - 2012. Họ kết luận rằng cả cơ sở hạ tầng CNTT và phát triển tài chính đều là vấn đề quyết định đến tăng trưởng kinh tế dài hạn của các nước châu Á. Bằng cách tiếp cận dữ liệu bảng động và tĩnh trong khuôn khổ mô hình tăng trưởng, Aghaei và Rezagholizadeh [17] nhận thấy rằng cứ tăng 1% trong đầu tư CNTT đã dẫn đến tăng trưởng kinh tế 0,52% tại các quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác Hồi giáo OIC trong giai đoạn 1990 - 2014. Pradhan và cộng sự [14] áp dụng các phương pháp véc tơ đồng kết hợp cho dữ liệu bảng và kiểm định quan hệ nhân quả Granger để xác định bản chất và hướng của mối quan hệ nhân quả hiện có giữa cơ sở hạ tầng CNTT cả băng thông rộng và người dùng Internet và tăng trưởng kinh tế. Họ đã sử dụng dữ liệu từ các quốc gia G-20 trong giai đoạn 2001-2012 và họ đã xem xét một số biến kiểm soát quan trọng có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, như chỉ số giá tiêu dùng, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động và tổng vốn gộp trong nước. Các kết quả đã cho thấy mối liên hệ tích cực giữa cơ sở hạ tầng CNTT cả băng thông rộng và internet và tăng trưởng kinh tế. Theo các tác giả này, cần chú ý đặc biệt đến việc áp dụng băng thông rộng và người dùng internet để tăng cường tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển. Sepehrdoust [18] đã thực hiện một nghiên cứu thực nghiệm bằng phương pháp GMM để điều tra tác động của phát triển CNTT và tài chính đối với tăng trưởng kinh tế của các nước xuất khẩu xăng dầu OPEC trong giai đoạn 2002 - 2015. Kết quả cho thấy, 1% tăng của chỉ số phát triển tài chính và các biến CNTT đã dẫn đến mức tăng trưởng kinh tế lần lượt là 0,048% và 0,050%. Những kết quả này phù hợp với kết quả trước đó được tìm thấy bởi Nasab và Aghaei [11] trên các nước OPEC trong giai đoạn 1990 - 2007. Mặt khác, nghiên cứu thực nghiệm điều tra mối quan hệ giữa khuếch tán CNTT và tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển [4], cho thấy rằng khuếch tán CNTT có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế theo cách tiêu cực, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Họ giải thích mối quan hệ tiêu cực này bởi thực tế rằng CNTT-TT có thể ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm và thị trường lao động thông qua việc giảm hoặc loại bỏ các vị trí cho lao động phổ thông, làm tăng thất nghiệp. Ngoài ra, CNTT tạo điều kiện thu hút và mở cửa thị trường mới cho các nước phát triển với chi phí của các nước đang phát triển. Nó cho phép các nước phát triển nâng cao sự thống trị của họ trên thị trường quốc tế bằng cách khai thác lợi thế cạnh tranh của họ so với các nước đang phát triển ít cạnh tranh hơn. Dewan và Kraemer đã sử dụng dữ liệu từ 36 quốc gia trong giai đoạn 1985 -1993, họ thấy rằng chỉ những nước phát triển mới được hưởng lợi từ hiệu quả tích cực của đầu tư CNTT đối với tăng trưởng kinh tế. Họ giải thích kết quả này bằng mức đầu tư CNTT thấp và thiếu các điều kiện môi trường phù hợp như cơ sở hạ tầng cơ bản, thực tiễn kinh doanh và các chính sách phù hợp của chính phủ ở các nước đang phát triển. Pohjola [15] đã không tìm thấy bất kỳ mối tương quan có ý nghĩa thống kê nào giữa đầu tư CNTT và tăng trưởng kinh tế trong trường hợp 43 quốc gia từ 1985 đến 1999. Theo tác giả, kết quả này là do khả năng tiếp cận công nghệ truyền thông và công nghệ lạc hậu ở nhiều nước đang phát triển. Trong một nghiên cứu khác, Lee và cộng sự nhận thấy rằng CNTT-TT có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế chỉ đối với các nước mới công nghiệp hóa chứ không phải các nước đang phát triển khu vực Đông Á. Các kết quả tương tự đã được Papaioannou và Dimelis [12] tìm thấy bằng cách sử dụng phương pháp GMM và mô hình tác động cố định cho 42 quốc gia đang phát triển và phát triển trong giai đoạn 1993 - 2001. Họ thấy rằng các khoản đầu tư vào CNTT chỉ thúc đẩy tăng trưởng ở các nước phát triển. Do đó, các tác giả cho rằng các nước đang phát triển nên thực hiện các biện pháp phù hợp để lấy lại vai trò tích cực của CNTT trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như tự do hóa chế độ thương mại, cải thiện nguồn nhân lực và áp dụng các chính sách thuận lợi của chính phủ. Pradhan và cộng sự [13] khẳng định rằng cả cơ sở hạ tầng CNTT và phát triển tài chính đều không đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế dài hạn của các nước Tây Á, bao gồm các nhà sản xuất dầu mỏ Ả Rập giàu có. Điều này được giải thích bởi sự phụ thuộc lớn của các nền kinh tế này vào doanh thu từ dầu mỏ. Gần đây, Albiman và Sulong [2] đã kiểm tra tác động dài hạn của CNTT đối với tăng trưởng kinh tế ở khu vực SSA trong giai đoạn 27 năm 1990 - 2014. Họ phát hiện ra rằng các biến đại diện cho CNTT, chẳng hạn như đường dây điện thoại, điện thoại di động và internet, có tác động tuyến tính tích cực và có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khi họ xem xét phân tích hiệu ứng phi tuyến, họ thấy rằng sự thâm nhập hàng loạt của các biến số CNTT dường như làm chậm tăng trưởng kinh tế trong khu vực SSA. 3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bộ dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu này được trích xuất từ Tổng cục Thống kê và cổng thông tin của Chính phủ báo cáo ICT. Dựa trên dữ liệu hàng năm của 63 tỉnh, thành phố ở Việt Nam, tác giả tổng hợp và tính toán dữ liệu cho 3 miền Bắc, Trung và Nam, từ năm 2009 - 2019. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của phổ biến CNTT đến tăng trưởng kinh tế của 3 miền ở Việt Nam trong giai đoạn 2009- 2019. Để làm điều này, chúng tôi đã ước tính một mô hình tăng trưởng tiêu chuẩn dựa trên khung tăng trưởng cho dữ liệu bảng của Barro và Martin. Ngoài ra, mô hình này được áp dụng bởi một số nghiên cứu thực P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY Website Vol. 57 - No. 1 Feb 2021 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY nghiệm trước đây như [2, 17]. Phương trình sau mô tả mô hình tăng trưởng được thông qua trong nghiên cứu này G = α+ αG + αICT + αX + γ+ ε 1 Trong đó - i đại diện cho mỗi tỉnh, thành trong dữ liệu bảng và t chỉ khoảng thời gian. - G là biến phụ thuộc, đề cập đến Tổng sản phẩm quốc nội GDP thực tế bình quân đầu người của tỉnh thành i trong giai đoạn t, được sử dụng làm đại diện cho tăng trưởng. - G là biến trễ của GDP thực tế bình quân đầu người, biến độc lập này được đưa vào mô hình để kiểm tra sự hội tụ Theo Barro, 1998 - ICT là biến giải thích, đại diện cho công nghệ thông tin. Bao gồm số thuê bao cố định trên 100 dân TEL; số lượng thuê bao di động trên 100 dân MOB; số người dùng internet trên 100 dân INT. Sự khác biệt với các nghiên cứu thực nghiệm gần đây, bài báo bổ sung biến đại diện cho CNTT thứ tư là số lượng thuê bao băng rộng cố định trên 100 dân BBA. Trên thực tế nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng việc áp dụng băng thông rộng có ảnh hưởng sâu sắc đến tăng trưởng kinh tế, việc làm và khả năng cạnh tranh vững chắc. Do đó, các tỉnh thành có hệ thống băng thông rộng đã chứng minh kinh tế tăng trưởng cao hơn và tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn [14]. - X là biến kiểm soát đã được đưa vào mô hình để kiểm soát mọi đóng góp đáng kể của các biến này vào tăng trưởng kinh tế của các tỉnh, thành trong suốt thời gian nghiên cứu. Với tham chiếu với các nghiên cứu trước đây trong tổng quan tài liệu, các biến kiểm soát trong các ước lượng thực nghiệm bao gồm sự phát triển tài chính được hỗ trợ bởi tín dụng cho khu vực tư nhân FIN; chi tiêu tiêu dùng chung của chính phủ tính theo phần trăm GDP GOV; mức độ mở của nền kinh tế của một quốc gia OPEN; và GCF là vốn đầu tư trong nước được tính bằng sự hình thành vốn gộp. Tất cả những giá trị này được biểu thị bằng phần trăm GDP. Ngoài ra, biến kiểm soát tỷ lệ lạm phát INF được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng được đưa vào mô hình. Các biến độc lập và biến giải thích đã được chuyển đổi thành logarit tự nhiên của chúng để sử dụng trong phân tích kinh tế lượng. - α là hằng số. α là hệ số được ước tính để đánh giá bất kỳ tác động tiềm năng độ trễ của GDP thực tế trên đầu người ở mức hiện tại; dự kiến sẽ có ý nghĩa thống kê để xác minh thông số động của mô hình của chúng tôi. - α là hệ số được ước tính để đánh giá bất kỳ tác động đáng kể nào của các biến CNTT đến tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh thành trong thời gian nghiên cứu. - α đại diện cho hệ số được ước tính cho mỗi biến kiểm soát X. - γđại diện cho các yếu tố cụ thể không quan sát được cho mỗi tỉnh, thành phố trong mẫu và sai số ngẫu nhiên được biểu thị bằng ε. Để ước lượng hệ số của các biến trong phương trình 1, tác giả sử dụng phương pháp GMM thay vì các phương thức dữ liệu bảng truyền thống, chẳng hạn như mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên và mô hình bảng hiệu ứng ngẫu nhiên. Theo Arellano và Bond, Arellano và Bover, sử dụng phương pháp GMM có thể cho phép chúng ta tránh các vấn đề về tác động cụ thể, tương quan chuỗi và biến nội sinh. Hơn nữa, mô hình tăng trưởng được áp dụng trong nghiên cứu công thức 1 bao gồm một biến phụ thuộc bị trễ để xác định biến động của biến phụ thuộc. Nghĩa là, GDP bình quân đầu người thực tế trước đó G có thể ảnh hưởng đến GDP bình quân đầu người hiện tại. Ngoài ra, các biến độc lập được sử dụng trong mô hình của chúng tôi có thể có vấn đề về tính nội sinh, đó là sự khác biệt để giải quyết bằng các phương pháp dữ liệu bảng truyền thống. Đặc biệt, phương pháp GMM có thể được áp dụng trong quy trình một bước hoặc hai bước. Ước lượng hai bước sử dụng phần dư thu được từ ước lượng bước đầu tiên để xây dựng ma trận hiệp phương sai nhất quán có trọng số khi các giả định về tính độc lập và tính đồng nhất đối với các tham số ước lượng không vững. Khác với các nghiên cứu trước đây [2, 21] thường sử dụng phương pháp GMM một bước, nghiên cứu này sử dụng GMM hai bước. 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Nghiên cứu hiện tại đã điều tra ảnh hưởng của khuếch tán CNTT đến tăng trưởng kinh tế của 3 miền của Việt Nam trong giai đoạn 2009 -2019 bằng cách sử dụng mô hình GMM hai bước Phương trình 1. Các kết quả liên quan đến 3 miền Bắc, Trung và Nam được trình bày trong bảng 1 ÷ 4. Nghiên cứu đã thực hiện một số kiểm định thống kê để kiểm tra ước lượng vững của tất cả các ước lượng có được từ việc áp dụng mô hình GMM trong nghiên cứu này. Đầu tiên, hệ số phóng đại phương sai VIF được sử dụng để phát hiện các vấn đề đa cộng tuyến. Trong tất cả các ước lượng bảng 1, 4, các giá trị VIF thấp nhỏ hơn 2,5 đã được tìm thấy, điều này cho thấy không có hiện tượng đa cộng tuyến cao giữa các biến giải thích. Kết quả này cũng được xác định bằng kiểm định tương quan Pearson chỉ ra sự không tồn tại của mối tương quan cao giữa các biến độc lập được đưa ra trong các ước lượng. Ngoài ra, kết quả của kiểm định Arellano và Bond về mối tương quan chuỗi bậc một và bậc hai trong sai phân bậc một và kiểm định Sargan về các hạn chế xác định được báo cáo cho tất cả các ước tính được trình bày trong bảng 3. Tác giả thấy rằng thử nghiệm Arellano và Bond chấp nhận giả thuyết không H0 rằng các sai số trong hồi quy sai phân bậc một cho thấy không có tương quan chuỗi bậc hai 2, cho thấy không có sai sót trong mô hình. Ngoài ra, kiểm định Sargan bác bỏ giả thuyết không H0 cho rằng mô hình ít biến là hợp lệ trong mô hình GMM, điều đó có nghĩa là các công cụ được xác định chính xác cho tất cả các ước lượng. Để đạt được kết quả này, tác giả đã tiến hành kiểm định Hansen về việc xác định giới hạn mô hình, kết quả chỉ ra rằng bộ công cụ trong mô hình là hợp lệ. XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 57 - Số 1 02/2021 Website P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 Bảng 1. Tác động của TEL đến tăng trưởng kinh tế các miền của Việt Nam, 2009 - 2019 Biến số Miền Bắc Miền Trung Miền Nam 0,9371***0,0160,0424 0,0950,9173***0,019TEL - 0,0073***0,001- 0,0266**0,012- 0,0039 0,003FIN 0,0603** 0,0040,0624** 0,0280,0546***0,007GOV 0,0121* 0,0050,0108***0,0340,0114***0,005OPEN 0,0250***0,0040,0913***0,0130,0263** 0,008INF - 0,0075***0,001- 0,0009* 0,007- 0,0035**0,002GCF 0,0476* 0,0050,0456** 0,0020,0423***0,007Kiểm định Arellano-Bond AR1 p-value AR2 p-value 0,0020 0,1835 0,3344 0,0228 0,6282 Kiểm định Sargan p-value 0,2335 0,9291 0,1766 Lưu ý Các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1% được ký hiệu lần lượt là *, ** và ***. Các sai số chuẩn đ ược báo cáo trong ngoặc đơn bên cạnh các ước tính chính xác. Tất cả các giá trị được dựa trên công cụ ước lượng theo phương pháp mô men tổng quát GMM hai bước. Bảng 1 cho thấy các kết quả thực nghiệm thu được từ ước lượng của mô hình trong phương trình 1 khi xem xét TEL, được đo bằng số thuê bao điện thoại cố định trên 100 cư dân, như là một đại diện cho biến công nghệ thông tin. Theo đó, hiệu ứng của điện thoại cố định TEL là tiêu cực và có ý nghĩa thống kê đối với dữ liệu bảng của 3 miền Bắc, Trung và Nam. Những điều này phù hợp với kết luận trong nghiên cứu của Sassi và Goaied [17], Wamboye và cộng sự [21]. Tác động tiêu cực của điện thoại cố định đối với tăng trưởng kinh tế có thể được giải thích là do việc tiếp tục đầu tư vào điện thoại cố định mang lại hiệu quả kinh tế kém ở các miền, dẫn đến tỷ lệ đầu tư của đường dây điện thoại thấp hơn [2]. Bên cạnh đó do tác động của hiệu ứng thay thế, điện thoại cố định đã được thay thế bằng điện thoại di động là nguyên nhân là do sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng về điện thoại cố định [3]. Bảng 2 cho thấy kết quả thực nghiệm được tìm thấy khi xem xét MOB, được đo bằng số lượng đăng ký di động trên 100 cư dân, đại diện cho biến CNTT. Các kết quả được trình bày liên quan đến các các miền Bắc - Trung - Nam trong giai đoạn 2009 - 2019. Bảng 2 chỉ ra rằng điện thoại di động MOB có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong tất cả các miền. Tuy nhiên, tác động mạnh mẽ và đáng kể hơn đã được tìm thấy đặc biệt ở Miền Bắc +7,08% và Miền Trung 3,33%, hiệu ứng này thấp hơn ở khu vực Miền Nam +2,4%. Kết quả cho thấy rằng trong giai đoạn gần đây 2009-2019, điện thoại di động đã trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các miền của Việt Nam. Những điều này củng cố những nỗ lực của nhiều miền để tăng tốc thâm nhập của điện thoại di động. Chúng tạo điều kiện cho mọi người có quyền truy cập vào công nghệ di động để tăng tốc độ lan rộng và sử dụng các dịch vụ tài chính di động. Do đó, thông qua thâm nhập di động cao hơn, các hoạt động thương mại, dịch vụ, thanh toán sẽ thực hiện dễ dàng và nhanh chóng hơn, các khách hàng của các ngân hàng sẽ dễ dàng tiếp cận tiền gửi và cho vay hơn và thực hiện các giao dịch tài chính khác nhau, chẳng hạn như lưu trữ và chuyển tiền và thanh toán hóa đơn. Bảng 2. Tác động của MOB đến tăng trưởng kinh tế các miền của Việt Nam, 2009 - 2019 Biến số Miền Bắc Miền Trung Miền Nam 0,6571 *** 0,0110,0749 0,1110,8171***0,045MOB 0,0708 *** 0,0040,0333***0,0010,0240* 0,008FIN 0,0401* 0,0020,0851* 0,0440,0373***0,007GOV 0,0138* 0,0040,1401***0,0190,0133** 0,006OPEN 0,0037 0,0040,0949* 0,0530,0156* 0,009INF - 0,0060 ***0,001- 0,0052 0,006- 0,0018 0,001GCF 0,0469 *** 0,0050,0495***0,0010,0429 ***0,007Kiểm định Arellano-Bond AR1 p-value AR2 p-value 0,0151 0,1773 0,0053 0,2602 0,0287 0,6395 Kiểm định Sargan p-value0,2192 0,9642 0,2109 Ngoài ra, thông tin tốt hơn thông qua điện thoại di động có thể cải thiện đáng kể việc thu thập thông tin cho người gửi tiền và các tổ chức tài chính và tăng cường giám sát. Sự thâm nhập điện thoại di động cao hơn thực sự làm giảm các hạn chế và chi phí vật lý về khoảng cách và thời gian [3, 21]. Bảng 3. Tác động của INT đến tăng trưởng kinh tế các miền của Việt Nam, 2009 - 2019 Biến số Miền Bắc Miền Trung Miền Nam 0,5379***0,020- 0,1177 0,1140,7234***0,039INT 0,0391***0,0020,0463** 0,0190,0310***0,005FIN 0,0295***0,0040,0571* 0,0330,0214***0,008GOV 0,0183** 0,0030,1285***0,0320,0135** 0,006OPEN 0,0192***0,0040,0777***0,0170,0288***0,008INF - 0,0003***0,001- 0,0058* 0,007- 0,0028**0,001GCF 0,0404***0,0020,0461** 0,0040,0418***0,007Kiểm định Arellano-Bond AR1 p-value AR2 p-value 0,0215 0,1001 0,0008 0,9095 0,0279 0,6637 Kiểm định Sargan p-value 0,2510 0,9517 0,1745 P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 ECONOMICS - SOCIETY Website Vol. 57 - No. 1 Feb 2021 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY Bảng 4. Tác động của BBA đến tăng trưởng kinh tế các miền của Việt Nam, 2009 - 2019 Biến số Miền Bắc Miền Trung Miền Nam 0,7781*** 0,0054 0,8546*** 0,027BBA 0,0153*** 0,0075*** 0,002FIN 0,0252*** 0,0040,0421** 0,0280,0351*** 0,007GOV 0,0137* 0,0040,0156*** 0,0181*** 0,005OPEN 0,0289***0,0289*** 0,008INF 0,0023** 0,0029* 0,002GCF 0,0425** 0,0405* 0,0566*** 0,008Kiểm định Arellano-Bond AR1 p-value AR2 p-value 0,0043 0,1936 0,0002 0,8369 0,0215 0,6318 Kiểm định Sargan p-value 0,2373 0,9803 0,1176 Bảng 3 và 4 cho thấy kết quả thực nghiệm được tìm thấy khi xem xét tương ứng INT, đó là số người dùng internet trên 100 dân và BBA là số lượng người đăng ký băng thông rộng được xác định trên 100 dân. Việc sử dụng internet INT và sử dụng băng thông rộng BBA của có tác động tích cực và có ý nghĩa đối với tăng trưởng kinh tế trong tất cả các tỉnh, thành của các miền ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng việc sử dụng internet sẽ cải thiện tăng trưởng kinh tế bằng cách thúc đẩy sự phát triển và áp dụng các quá trình đổi mới và từ đó thúc đẩy cạnh tranh dẫn đến việc phát triển các sản phẩm, quy trình và mô hình kinh doanh mới. Ngoài ra, nghiên cứu này phù hợp với hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cho thấy sự hiện diện của tác động tích cực của internet đối với tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển [17, 21]. Các kết quả được tìm thấy cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đó cho thấy rằng các quốc gia có băng thông rộng đã chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế cao hơn [14]. Tuy nhiên, bảng 3 chỉ ra rằng tác động tích cực của việc sử dụng internet đối với tăng trưởng kinh tế là quan trọng hơn ở miền Trung +4,63% so với miền Bắc +3,91%, miền Nam +3,1%. Hơn nữa, Bảng 4 cho thấy việc áp dụng băng thông rộng có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, mạnh hơn ở miền Trung +2,88% so với miền Bắc +1,53%, miền Nam +0,75%. Những điều này cho thấy sự hiện diện vượt trội ở miền Trung trong những năm gần đây so với miền Bắc và miền Nam về việc sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Xem xét các biến kiểm soát được đưa ra trong các ước lượng, kết quả cho thấy rằng sự phát triển tài chính FIND đã ảnh hưởng đáng kể đến sự tăng trưởng kinh tế của các miền trong suốt thời gian nghiên cứu. Hiệu ứng này là tích cực từ +4,21% đến +8,51% ở khu vực miền Trung; từ +2,52 đến 6,03 ở khu vực miền Bắc và ở khu vực miền Nam, từ +2,14% đến +5,46%. Trong tất cả các ước lượng từ bảng 1 ÷ 4, chi tiêu tiêu dùng của chính phủ GOV có tác động tích cực và mạnh mẽ đến GDP bình quân đầu người ở khu vực miền Bắc từ +12,1% đến +18,3%, trong khi tác động của nó là yếu hơn nhưng tích cực đối với khu vực miền Nam từ +11,4% đến +18,1%, ở khu vực miền Trung là +10,8% đến 15,6%. Kết quả cũng cho thấy, sự cởi mở thương mại OPEN đã tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế ở các miền trong thời gian nghiên cứu. Lạm phát INF có tác động tiêu cực và ảnh hưởng rất nhỏ dưới 1% đến tăng trưởng kinh tế của tất cả các miền trong mẫu nghiên cứu. Biến kiểm soát cuối cùng được giới thiệu trong các ước lượng là đầu tư trong nước GCF. Kết quả cho thấy nó có tác động tích cực và có ý nghĩa hơn 4% đối với tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là trong trường hợp ở Miền Nam. 5. KẾT LUẬN Trong nghiên cứu này, tác giả đã nghiên cứu ảnh hưởng của khuếch tán CNTT đến tăng trưởng kinh tế của 63 tỉnh, thành được phân chia theo 3 miền Bắc, Trung và Nam trong giai đoạn 2009 - 2019. Mô hình tăng trưởng GMM gồm hai bước được sử dụng để khám phá mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bốn biến CNTT điện thoại cố định TEL, điện thoại di động MOB, sử dụng internet INT và áp dụng băng thông rộng BBA. Kết quả cho thấy ngoại trừ điện thoại cố định, các công nghệ thông tin và truyền thông khác như điện thoại đi động, sử dụng internet và sử dụng băng thông rộng là những yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các vùng miền ở Việt Nam trong giai đoạn 2009 - 2019. Thật vậy, tác động tiêu cực của điện thoại cố định đối với tăng trưởng kinh tế cho thấy nhiều tỉnh, thành trong mẫu nghiên cứu không được hưởng lợi từ tiềm năng tăng trưởng của công nghệ viễn thông này. Điều này có thể là do khả năng chi trả cơ sở hạ tầng cần thiết để cài đặt và khuếch tán các đường dây điện thoại cố định trên tất cả các địa phương [2, 21]. Hơn nữa, kết quả này có thể được giải thích bởi thực tế là điện thoại di động là phương tiện thay thế cho điện thoại cố định ở các tỉnh, thành. Điều này đặc biệt đúng đối với các tỉnh miền Trung gần đây đã chứng kiến sự tăng trưởng nhanh chóng về tỷ lệ thâm nhập điện thoại di động. Giải thích này phù hợp với những phát hiện của chúng tôi. Cũng trong nghiên cứu ngày, kết quả cho thấy điện thoại di động có tác động tích cực nhất đối với tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh, thành khu vực miền Trung trong giai đoạn nghiên cứu 2009 - 2019. Theo các nghiên cứu trước đây, kết quả nghiên cứu này xác nhận rằng việc sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng là một trong những yếu tố chính có liên quan đến phát triển kinh tế. Một phân tích sâu hơn cho thấy rằng sự vượt trội của các tỉnh thành khu vực miền Trung so với khu vực miền Bắc và khu vực miền Nam tồn tại qua thời gian nghiên cứu trong các lĩnh vực sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Một số hàm ý chính sách và khuyến nghị - Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, chính quyền và các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam nên tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng điện thoại di động vì nó hiệu XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Tập 57 - Số 1 02/2021 Website P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 quả hơn về mặt chi phí và có lợi hơn so với điện thoại cố định, đặc biệt là ở khu vực miền Bắc và miền Nam. - Các nhà chức trách nên thiết kế các chính sách, giải pháp yêu cầu nâng cấp và mở rộng cơ sở hạ tầng CNTT hiện có để tăng tốc sử dụng internet và áp dụng băng thông rộng. Nâng cao hơn nữa hiệu quả của chính phủ điện tử để thúc đẩy quản trị tốt và cải thiện hiệu quả công khai. - Cần có chính sách nhằm kích thích sự phổ biến của CNTT trong khu vực tư nhân thông qua một số can thiệp chính sách như giảm thuế, trợ cấp, thúc đẩy thương mại điện tử và phát triển các mối quan hệ đối tác tư nhân - công cộng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ viễn thông. Điều này rất quan trọng vì nó đã được chứng minh rằng các công nghệ mới này tích cực và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế bằng cách thúc đẩy sự phát triển và áp dụng các quá trình đổi mới và thúc đẩy cạnh tranh. - Ý nghĩa chính sách khác liên quan đến các biến kiểm soát được giới thiệu trong các ước lượng cũng cần được xem xét. Nhiều hành động nên được thực hiện nhằm phát triển lĩnh vực tài chính để giúp CNTT thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, Việt Nam nên tiếp tục nỗ lực tăng cường sự cởi mở của các nền kinh tế và ưu tiên phân bổ nguồn lực cho phát triển cơ sở hạ tầng CNTT để phát triển từ cuộc cách mạng CNTT-TT. Ngoài ra, họ nên ban hành các chính sách cung cấp môi trường pháp lý và thể chế thuận tiện hơn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, tăng cường cạnh tranh công bằng trong lĩnh vực CNTT-TT và thúc đẩy các dịch vụ hỗ trợ internet và sự hiện diện của internet, bao gồm cả chính phủ điện tử và thương mại điện tử. - Cuối cùng, chính phủ nên áp dụng các chính sách cần thiết để kiềm chế mức tiêu dùng của chính phủ và tỷ lệ lạm phát để tránh tác động tiêu cực của chúng đối với tăng trưởng kinh tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Aghaei, Majid, Mahdieh Rezagholizadeh, 2017. The impact of information and commun ication technology ICT on economic growth in the OIC Countries. Environmental & Socio-Economic Studies, 17 255–76. [2]. Albiman, Masoud Mohammed, Zunaidah Sulong, 2016. The role of ICT use to the economic growth in Sub Saharan African region SSA. Journal of Science and Technology Policy Management 7 306–29. [3]. Andrianaivo, Mihasonirina, Kangni Kpodar, 2011. ICT, Fina ncial Inclusion, and Growth Evidence from African Countries, Working Paper No. 11/73, International Monetary Fund, IMF Working Paper. [4]. Aghion, Philippe, Peter Howitt, 1998. Endogenous Growth Theory. Cambridge MIT Press. [5]. Grimes, Arthur, Cleo Ren, Philip Stevens, 2012. The need for speed Impacts of in ternet connectivity on firm produ ctivity. Journal of Productivity Analysis 37 187–201 [6]. Gruber, Harald, Pantelis Koutroumpis, 2010. Mobile communica tions Diffusion facts and prospects. Communications and Strategies 77 133–45. [7]. Inklaar, Robert, Mary O’Mahony, and Marcel Timmer, 2005. ICT and Europe’s productivity performan ce Industry-level growth account comparisons with the United States. Review of Income and Wealth, 51 505–36. [8]. Koutroumpis, Pantelis, 2009. The economic impact of broadband on growth A simultaneous approach. Telecommunications Policy, 33 471–85. [9]. Lee Sang H., John Levendis, Luis Gutierrez, 2012. Telecommunications and economic growth An empirical analysis of Sub-Saharan Africa. Applied Economics, 44 461–69. [10]. Madden, Gary, Scott J. Savage, 1998. CE E telecommunications investment and economic growth. Information Economics and Policy, 10 173–195. [11]. Nasab, Ebrahim Hosseini, Majid Aghaei, 2009. The effect of ICT on economic growth Further evidence. International Bulletin of Business Administration, 10 46–56. [12]. Papaioannou, Sotiris K., Sophia P. Dimelis, 2007. Infor mation technology as a factor of economic development Evidence from developed and developing countries. Economics of Innovation and New Technology, 16 179–94. [13]. Pradhan, RudraP., Mak B. Arvin, Neville R. Norman, 2015. The dynamics of information and communications technolo gies infrastructure, economic growth, and fina ncial development Evidence from Asian countries. Technology in Society, 42 135–49 [14]. Pradhan, Rudra P., Mallik Girijasankar, Tapan P. Bagchi, 2018. Information communication technology ICT infrastructure and economic growth A causality evinced by cross-country panel data. IIMB Management Review, 30 91–103. [15]. Pohjola, Matti, 2002. The new economy Fac ts, impacts and politics. The Journal of Information Economics and Policy, 14 133–44. [16]. Roller, Lars-Hendrik, Leonard Waverman, 2001. Telecommunicatio ns infrastructure and economic development, a simulta neous equations approach. American Economic Review, 91 909–23. [17]. Sassi, Seifallah, Mohamed Goaied, 2013. Fina ncial development, ICTdiffusion an d economic growth Lessons from MENA region. Telecommunications Policy, 37 252–61. [18]. Sepehrdoust, Hamid, 2018. Impact of in formation and communication technology and financial development on economic growth of OPEC developing economies. Kasetsart Journal of Social Sciences. [19]. Solow, Robert M, 1956. A contribution to the theory of economic growth. Quarterly Journal of Economics, 70 65–94. [20]. Yousefi, Ayoub, 2011. The impact of information and communication technology on economic growth Evidence from developed and develo ping countries. Economics of Innovation and New Technology, 20 581–96. [21]. Wamboye, Evelyn, Kiril Tochkov, Bruno S. Sergi, 2015. Technology adoption and growth in sub-Saha ran African countries. Comparative Economic Studies, 57 136–67. [22]. World Bank, 2017. World Development Indicators. Washington, DC World Bank. AUTHOR INFORMATION Ha Thanh Cong Faculty of Business Administration, Hanoi University of Industry ResearchGate has not been able to resolve any citations for this study examines certain long-run relationships hypothesised to be present among per capita real GDP, information and communication technology ICT infrastructure, consumer price index, labour force participation rate, and gross fixed capital formation manifest in G-20 countries recorded for the 2001-2012 period. Using panel cointegration, the study finds that the variables are cointegrated and do not drift apart in the long run. Methodology using vector error correction models VECM further confirms that embellishment of ICT infrastructure – an apparent imperative in an economy's information technology IT policy formulation – for both fixed broadband and internet users causes a boost in the per capita GDP. Hamid SepehrdoustThe main objective of present study was to investigate the impact of information and communication technology ICT and financial development on the developing economies of the petroleum exporting countries OPEC for the period 2002–2015 using a panel-GMM type of growth model. The results extracted from the econometric model showed that an increment of one percent in the financial development index and ICT variables caused economic growth to increase by .048 and .050 percent, respectively. Moreover, the impact of variables such as inflation negative, active labor force growth positive, investment growth positive, and growth of gross fixed capital formation positive on the economic growth of the countries, were close to theoretical expectations. However, the impact of variables such as trade openness negative and government spending size positive on the economic growth of the selected countries did not support previous findings, perhaps because of the economic structural differences of the selected growth theories hypothesize economic growth processes as heavily dependent on investment in Information and Communication Technology ICT. However, the full empirical verification of this hypothesis still is an open task, particularly when growth is considered within selected countries such as the OIC countries. Furthermore, the conclusions derived from research concerning the causal relationship between ICT and economic growth is often sensitive to the research methodology employed. This paper employs dynamics and static panel data approach within a framework of growth model and apply them to the economy of OIC countries over the time period of 1990-2014. The estimates reveal a significant impact of investments in ICT on economic growth in the countries considered. The policy implication of this paper is that the OIC countries should design specific policies for promoting investment in Mohammed Albiman Zunaidah SulongPurpose This paper aims to examine the long run impact of information and communication technology ICT on economic growth in the Sub Saharan African SSA region. The direct impact of ICTs use was examined for a 27-year period 1990-2014, before the Millennium Development Goals MDGs era 1990-1999 and during the MDGs era 2000-2014. Second and third objectives examined the nonlinear effect of ICT in the economic growth and their threshold values, respectively. The main growth enhancing transmission channels of ICT use were also looked at. Design/methodology/approach The study uses panel method technique of system generalist method of moment. The data period was collected from the years 1990-2014 from 45 SSA countries. The three main proxies of ICT are fixed telephone lines, mobile phone users and internet users per 100 inhabitants. Findings For the direct impact analysis, mobile phone and internet were found to have triggered economic growth. However, for nonlinear effect analysis, mass penetration of ICT proxies seems to slow economic growth. The threshold analysis showed a penetration rate threshold of per cent for both mobile phone and internet, and 5 per cent for fixed telephone line before economic growth gets triggered. Finally, the results indicated that, except for financial development, human capital, institutional quality and domestic investment were the main growth enhancing transmission channels of ICTs use in the economy. Practical implications From a policy perspective, results suggest SSA region to open more doors for investment in technology to ensure sustainable development. Such policy has to focus on investment into main transmission channels of ICT, namely, human capital, institutional quality and domestic investment. The policymakers have to ensure that penetration of mobile phone, fixed telephone and internet is met by improvement in human capital, institutional quality and domestic investment. Moreover, to fully use the potential of ICT, improving the financial sector is highly recommended. Originality/value In SSA, studies that address the impact of ICT on economic growth was almost non-existent, especially on its nonlinear effect and main transmission channels. While few studies have examined the direct impact of ICT, this study extended the scope by including the main growth enhancing transmission channels and nonlinear effect of ICT on SSA economies using recent study analyzes the relationship between information and communication technologies ICTs and labor productivity growth in sub-Saharan Africa over the period 1975–2010. The results show that fixed-line and mobile telecommunications have a positive and significant impact on growth after penetration rates reach a certain critical mass. The thresholds are identified using nonparametric methods. Penetrations rates of between 20% and 30% for telephones and 5% for internet usage trigger increasing returns. FDI and openness are found to improve productivity and to help ICTs boost growth. Financial development serves as a possible transmission channel for the growth-enhancing effects of Hosseini Nasab Majid AghaeiEconomic growth theories predict that economic growth is driven by investments in Information and Communication Technology ICT. However, empirical studies of this prediction have produced mixed results, depending on the research methodology employed and the geographical configuration considered. To provide yet a further test, this paper employs a Generalized Method of Moments GMM within the framework of a dynamic panel data approach and applies it to the economy of OPEC member countries over the time span of 1990-2007. The estimates reveal a significant impact on economic growth of investments in ICT in the OPEC member countries. This implies that if these countries seek to enhance their economic growth, they need to implement specific policies that facilitate investment in P. Pradhan Mak ArvinNeville R. NormanThis paper investigates causal relationships between information and communications technologies ICT infrastructure, financial development, and economic growth in Asian countries over the twelve-year period 2001–2012. Using panel cointegration techniques, our empirical results show these variables are cointegrated, with a myriad of short-run and long-run causal links between ICT infrastructure and economic growth, between financial development and economic growth, and between ICT infrastructure and financial M SolowI. Introduction, 65. — II. A model of long-run growth, 66. — III. Possible growth patterns, 68. — IV. Examples, 73. — V. Behavior of interest and wage rates, 78. — VI. Extensions, 85. — VII. Qualifications, YousefiThis study examines whether, and to what extent, information and communication technology ICT has helped to improve economic growth. We adopt the traditional growth model as a framework to estimate contributions of labor, ICT, and non-ICT capital to economic growth in developed and developing countries. The estimates of the growth model by using time-series cross-country data of a total of 62 countries for the period of 2000–2006 reveal that economic growth effect of ICT differs across different income groups of countries. The paper concludes that ICT plays a major role in the growth of high and upper-middle income groups, but fails to contribute to the growth of the lower-middle income group countries. Such findings suggest that the level of investment in ICT is not the cause of slow growth in lower-middle developing countries as previously thought.
Mặt tác hại của thời đại số, công nghệ thông tin mang lại với con người Những triệu chứng chỉ xuất hiện trong kỉ nguyên công nghệ là mặt trái của sự hiện đại và Internet đối với đời sống của con người. Công nghệ hiện đại thực sự đã thay đổi cuộc sống của chúng ta bằng cách mang lại những trải nghiệm mới mẻ, tiện ích và nhanh hơn. Thế nhưng, không có điều gì là hoàn hảo, mặc dù lợi ích đã lấn át đi một số điểm trừ mang lại, công nghệ cũng đã khai sinh ra không ít những “căn bệnh” mà con người có thể đang mắc phải mà không hề hay biết. 1. Phantom Ringing Syndrome Triệu chứng Não bạn được kích hoạt cảm nhận rung của điện thoại nhưng trong thực tế điện thoại không hề rung. Đã bao giờ bạn vội vàng thò tay vào túi quần để lấy chiếc điện thoại vì rõ ràng vừa cảm thấy nó rung nhưng khi nhìn vào màn hình thì lại không thấy bất cứ cuộc gọi đến, tin nhắn hay thông báo nào chưa? Nghe thì có vẻ kì lạ nhưng đây lại là một căn bệnh khá phổ biến đối với người dùng điện thoại. Theo Giáo sư Larry Rosen, tác giả cuốn sách iDisorder, 70% người dùng thường xuyên sử dụng điện thoại thừa nhận mình mắc phải triệu chứng kể trên. Giáo sư Larry cũng dự đoán thêm, trong tương lai không xa khi những phụ kiện công nghệ mang mặc xuất hiện trên thị trường đại trà. Hội chứng này sẽ nhanh chóng phát triển thêm nhiều biểu hiện khác. Đơn cử như sau một thời gian dài sử dụng Google Glass, rất có thể người ta sẽ có xu hướng nhìn thấy một thứ mà thực ra thứ đó đang không hề ở trước mắt họ. 2. Nomophobia Triệu chứng Cảm thấy bồn chồn khi không được tiếp xúc với các thiết bị di động. Nomophobia là viết tắt của “No-mobile phobia”. Nomophobia là cảm giác lo lắng tăng lên dần mà một số người mắc phải khi không được ở gần chiếc điện thoại của mình và sự rối loạn này thực sự có thể có những ảnh hưởng tiêu cực khá trầm trọng lên đời sống người mắc phải. Căn bệnh thời đại số kể trên đang ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm khi ngày càng có nhiều các trung tâm phục hồi mọc lên và phác đồ điều trị được phát triển để xử lí nó. 3. Cybersickness Triệu chứng Cảm thấy mất định hướng và choáng váng khi tương tác với một môi trường hay phụ kiện số nhất định. Trong khi, một số người dùng tỏ ra vô cùng thích thú với giao diện phẳng, rực rỡ và hoàn toàn mới của iOS thì không ít người lại cảm thấy khó chịu, chóng mặt, nôn nao khi tương tác với hệ điều hành mới này. Giải thích cho hiện tượng này, các nhà nghiên cứu cho hay đây là kết quả của các hiệu ứng mới được bổ sung trên iOS 7 như parallax viewing hay hiệu ứng zoom khi mở ứng dụng. Theo đó, đây chính là ví dụ mới nhất của căn bệnh “Cybersickness”. Cụ thể, căn bệnh này lần đầu tiên được đề cập đến vào năm 1990 để miêu tả cảm giác mất định hướng khi một người tiếp xúc với hệ thống mô phỏng thực tế ảo lúc bấy giờ. Sự nôn nao được cho là đến từ cảm giác chóng mặt do sự di chuyển mà não cảm nhận trong khi ta lại đang đứng yên. 4. Facebook Depression Triệu chứng Sự chán nản với căn nguyên đến từ mạng xã hội Facebook Loài người là một loài sinh vật bậc cao có tính xã hội lớn, do đó, rất nhiều người đã nghĩ rằng tăng giao tiếp trên mạng xã hội sẽ làm con người vui hơn nhưng thực tế thì ngược lại. Một nghiên cứu của trường Đại học Michigan, Hoa Kì đã khẳng định rằng sự thất vọng, buồn chán ở người trẻ tỉ lệ thuận trực tiếp với khoảng thời gian họ dành ra lang thang trên Facebook. Trong đó một lí do có thể đến từ việc mọi người thường có xu hướng đăng những điều vui vẻ, hoàn hảo lên Facebook do đó người khác có thể sẽ lầm tưởng rằng tất cả mọi người đều dường như có một cuộc sống hạnh phúc, vui vẻ hơn họ. Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng nói thêm rằng bạn có thể giải quyết được vấn đề trên bằng cách duy trì cân bằng cuộc sống trên mạng xã hội và cuộc sống ngoài đời thực để hiểu hơn và có cái nhìn đúng hơn về những người bạn của mình. 5. Internet Addiction Disorder Triệu chứng Liên tục sử dụng Internet mặc ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe. Internet Addiction Disorder tạm dịch rối loạn hành vi nghiện Internet ám chỉ trực tiếp đến thời lượng sử dụng Internet hàng ngày vượt quá mức độ cho phép của một cá nhân. Nói về hậu quả của căn bệnh này, các nhà nghiên cứu cho rằng nó sẽ tác động tiêu cực không ít đến sự tự tin và năng suất làm việc của một người. 6. Online Gaming Addiction Triệu chứng Có thói quen chơi game trực tuyến nhiều và không lành mạnh. Theo một nghiên cứu năm 2000 được thực hiện bởi chính phủ Hàn Quốc, 8% dân số nước này thuộc độ tuổi từ 9 đến 39 mắc phải một trong hai căn bệnh hoặc là nghiện Internet hoặc là nghiện chơi game online. Tình trạng này nghiêm trọng đến mức họ đã phải cắt kết nối Internet cho đối tượng người dùng dưới 16 tuổi từ nửa đêm đến 6 giờ sáng. Trên thực tế thì rất nhiều các nguồn nghiên cứu đều cho rằng nghiện game là một nhánh nhỏ của nghiện Internet và hậu quả của chúng thì tương tự nhau. 7. Cyberchondria Triệu chứng Có xu hướng tin rằng mình bị mắc bất cứ thứ bệnh gì đọc được khi online. Cơ thể con người là một tập hợp của những bất ngờ và ngẫn nhiên có thể cho chúng ta các trải nghiệm đau, nhức… mỗi ngày. Hầu hết những cảm giác khó chịu đó đều không có gì quá nghiêm trọng và sẽ tự biến mất trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, với một số người, mọi chuyện có thể sẽ thành ra rất khác bởi một nguồn kiến thức y học rộng lớn trôi nổi trên Internet. Bạn bị đau đầu và quyết định sẽ tìm thử xem nguyên nhân là gì. Vô tình , một trang web có đề cập đến đau đầu là triệu chứng u não. Bạn giật mình và bắt đầu lo sợ mình đang mắc phải thứ bệnh trầm trọng này? Đây chính là xu hướng của một người mắc phải hội chứng Cyberchondriac thường tưởng tượng. Năm 2008 thậm chí Microsoft đã tiến hành hẳn một nghiên cứu khá dài hơi về ảnh hưởng của việc tự khám bệnh bằng cách tìm kiếm thông tin trên Internet có thể dẫn đến những kết luận tồi tệ ra sao của người dùng. 8. Google Effect Triệu chứng Có xu hướng tự động nhớ ít thông tin hơn bởi mặc định tất cả đều có trên Google sau một vài cú click chột. Nhờ có Internet, con người có thể nhanh chóng tiếp cận với tri thức nhân loại, tuy nhiên, mặt trái của nó đã làm cho chúng ta trở nên lười suy nghĩ và tư duy hơn. Theo Giáo sư Rosen, hiệu ứng Google không hẳn là một điều quá tệ, tuy nhiên, trong một vài trường hợp nhất định nó sẽ mang lại những kết quả tiêu cực. Ví dụ như, một đứa trẻ không chịu nghe giảng trên lớp bởi mặc định cậu cho rằng tất cả những điều đó đều có thể nhờ các công cụ tìm kiếm tìm ra được.
Mạng xã hội – nơi chia sẻ, kết nối mọi người trên thế giới với nhau. Nhưng nó có thực sự hữu ích nếu bạn sử dụng đến mức “nghiện” hay không? Trong cuộc sống với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật. Tạo điều kiện cho mọi người trao đổi thông tin với nhau một cách nhanh nhất. Xóa bỏ những khoảng cách về không gian, thời gian. Bên cạnh mặt tích cực đó thì vẫn còn một số nhược điểm nhất định. Vì vậy hãy là một người sử dụng mạng xã hội một cách thông minh. Tận dụng mặt tích cực và hạn chế những điều tiêu cực mà nền tảng mang lại. 1. Mạng xã hội là gì? Top trang mạng xã hội phổ biến hiện nayMạng xã hội làTop các trang mạng xã hội phổ biến hiện nay2. Thực trạng sử dụng mạng xã hội ngày nay3. Mạng xã hội có vai trò như thế nào?4. Mặt tích cực và tiêu cực của mạng xã hộiMặt tích cựcMặt tiêu cực5. Sử dụng mạng xã hội như thế nào cho đúng? 1. Mạng xã hội là gì? Top trang mạng xã hội phổ biến hiện nay Mạng xã hội là Mạng xã hội được hiểu là một trang web hay nền tảng trực tuyến. Nơi mà giúp mọi người kết nối với nhau. Xây dựng những mối quan hệ ảo với chung sở thích, tính cách,… không phân biệt không gian và thời gian. Mạng xã hội hiện có rất nhiều kiểu dạng thức và nhiều tính năng ứng dụng khác nhau, được trang bị trên nhiều công cụ thiết bị cũng như vận hành kết nối trên các nền tảng như laptop, máy tính bàn, máy tính bảng, điện thoại… Chúng giúp cho người dùng chia sẻ những câu chuyện cá nhân, hay các câu chuyện cuộc sống, những ý tưởng, video… Có nhiều mô hình trang mạng khác nhau, tuy nhiên điểm chung của những mô hình của chúng thường sẽ tập trung vào các vấn đề chính sau đây Mạng xã hội được xây dựng ứng dụng dựa trên nền tảng của mạng Internet. Người dùng được cung cấp nội dung và có thể chia sẻ rộng rãi trên mạng. Người dùng tự tạo trang profile cá nhân để giới thiệu quảng bá mọi thông tin cá nhân. Top các trang mạng xã hội phổ biến hiện nay Hiện nay, có rất nhiều nền tảng trực tuyến đang ngày càng trở nên nổi tiếng và thu hút. Nhưng phổ biến nhất ở Việt Nam thì Facebook, Instagram,Twitter, Lotus, Youtube đang ở vị trí dẫn đầu. 2. Thực trạng sử dụng mạng xã hội ngày nay Không khó để thấy rằng ngày nay, số người sử dụng mạng xã hội ngày càng tăng lên. Theo các đánh giá chuyên môn, có thể thấy hơn 30 triệu người sử dụng internet tại Việt Nam. Trong đó có hơn người sử dụng để truy cập vào các trang web Facebook, Instagram,… Nhưng theo đó, độ tuổi sử dụng nhiều nhất tập trung ở giới trẻ từ 15-34 tuổi. Đa số dùng để học tập, giải trí, mua sắm, tìm kiếm việc làm,… Công nghệ cuộc sống ngày càng phát triển, vì thế người dùng ngày càng tăng cao. Hiện nay đã chiếm một phần quan trọng trong cuộc sống của mọi người. Nhưng để mang lại những hiệu quả tích cực, không ảnh hưởng xấu đến cuộc sống, thì cần phải biết sử dụng một cách thích hợp. 3. Mạng xã hội có vai trò như thế nào? Giúp mọi người phát triển nhận thức, tư duy, kỹ năng sống nhiều hơn Hiện nay, việc truy cập thông tin, năm bắt thông tin ở mạng xã hội phổ biến hơn rất nhiều. Nơi mà tất cả các kiến thức của các lĩnh vực khác nhau đều dễ dàng truy cập. Chỉ với một vài thao tác đơn giản, người dùng đã cập nhật kịp thời các tin “nóng”, xu hướng, trào lưu,… Ngoài ra, nền tảng trực tuyến này còn có nhiều trang web dạy các kỹ năng sống cơ bản như nấu ăn, trang điểm, làm đẹp,…. miễn phí rất được người dùng ưa chuộng. Nâng cao quá trình hội nhập của Việt Nam Có thể thấy, Facebook, Youtube,…. là các trang mạng xã hội xuyên quốc gia. Tạo ra được nhiều cơ hội, khả năng giao lưu, tiếp xúc giữa các dân tộc trên thế giới. Qua đó, giúp chúng ta tiếp cận được với nhiều nền văn hóa khác nhau, hiểu biết hơn về văn hóa, giải trí của nước bạn. Giúp mọi người liên kết lại gần với nhau hơn Nhờ sự phát triển ngành càng cao của khoa học kỹ thuật, mạng xã hội cho phép người dùng kết nối với nhau một cách thuận tiện hơn. Tương tác, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn,…với bạn bè, người thân. Ngoài ra, việc phổ biến rộng rãi như hiện nay, mạng xã hội còn là nơi để “người giúp người” trong các công tác xã hội như nghèo đói, lũ lụt,… Đặc biệt với tình hình dịch Covid 19 diễn biến phức tạp, việc truy cập thông tin trên các trang web là nhanh chóng kịp thời. Mặt khác, còn có thể quyên góp, từ thiện cho các hoạt động chống dịch. Nơi để mọi người đoàn kết, một lòng vượt qua mọi khó khăn trong thời điểm hiện tại Xem thêm Những cách tránh tổn thương khi dùng mạng xã hội 4. Mặt tích cực và tiêu cực của mạng xã hội Mạng xã hội được ví như một “con dao hai lưỡi”. Dù đem lại nhiều tích cực cho đời sống. Nhưng, nếu không biết sử dụng một cách thích hợp thì mang lại hệ lụy rất nguy hiểm. Mặt tích cực Tăng khả năng kết nối Một trong những lợi ích đầu tiên – tăng khả năng kết nối. Bạn có thể gọi điện, nhắn tin với tất cả mọi người ở bất cứ nơi đâu. Cập nhật tin tức, hình ảnh của bạn bè, gia đình dù có ở xa như thế nào đi nữa. Bạn ngại kết nối với mọi người ở ngoài, thì đây là một nơi “siêu” lý tưởng. Bạn có thể tự do chia sẻ, giới thiệu về mình để tìm hiểu, kết nối với nhiều bạn mới hơn Cập nhật tin tức, xu thế, trào lưu Hóng “drama” – một trong những trào lưu hiện nay của giới trẻ. Những cụm từ “hot” trong vài tháng qua có thể kể đến như “sao kê”, “trà xanh” luôn được các bạn trẻ quan tâm. Mỗi một câu chuyện đưa lên thu về rất nhiều lượt bình luận, ai cũng muốn mình sẽ nắm bắt kịp thời để không bị “lạc hậu”. Bên cạnh đó, thông tin của đại dịch Covid được đăng tải hằng ngày, giúp cho người dùng tìm kiếm, truy cập được tin tức nhanh nhất, chính xác nhất. Cải thiện kỹ năng sống Trên Internet hiện nay là nơi hội tụ rất nhiều trang web. Đặc biệt có những trang truyền tải miễn phí các kỹ năng như nấu ăn, trang điểm,… và nhiều kỹ năng khác vô cùng thu hút. Chúng ta có thể tự học, hoàn thiện những kỹ năng cơ bản của mình. Quảng cáo miễn phí Các doanh nghiệp đều tích cực sử dụng nền tảng mạng xã hội để làm một “chiêu thức” quảng cáo mà không tiêu tốn nhiều tài nguyên của công ty. Ngược lại, quảng cáo trên nền tảng này còn tăng cơ hội tiếp cận tới khách hàng nhiều hơn. Ngoài ra, còn đem lại những giây phút giải trí vô cùng tuyệt vời. Mỗi một người dùng khác nhau, sẽ có một điều tích cực khác nhau. Mặt tiêu cực Bên cạnh những điều tích cực mà mạng xã hội mang lại, thì cũng có những hạn chế Thiếu sự tương tác Chính vì ngại tương tác bên ngoài, chỉ sử dụng mạng xã hội nên thời gian ở bên người thân, bạn bè rất ít. Làm cho các mối quan hệ bị rạn nứt, khó tìm được sự đồng cảm Dễ mắc bệnh trầm cảm, mất ngủ, thiếu sự sáng tạo Việc sử dụng mạng xã hội quá nhiều trong một ngày gây ra những hệ lụy rất đáng tiếc. Trên báo đài thường hay đưa tin buồn về những điều này. Bên cạnh đó, trẻ em sử dụng quá nhiều thời gian vào mạng xã hội sẽ dễ gây ra bệnh trầm cảm,… Ngoài ra, quá tập trung vào nền tảng trực tuyến này sẽ làm cho chúng ta mất nhiều thời gian. Khiến việc phát triển não bộ bị hạn chế, hạn chế khả năng sáng tạo. Mất khả năng kiểm soát hành vi, bạo lực mạng Đây là điều tiêu cực nhất, dẫn đến có nhiều người “không vượt qua” được và tìm đến “cái chết” vì những lời nói, hành vi xúc phạm trên mạng. Người ta chỉ nhìn vào một phía mà phán xét, đánh giá những điều không có căn cứ, không đúng với sự thật. Hoặc đăng tải những thông tin “giật tít”, “câu like” gây phản cảm tới người dùng và những người trong cuộc. Xem thêm Tại sao mạng xã hội được xem là “toxic”? 5. Sử dụng mạng xã hội như thế nào cho đúng? Với những điểm tiêu cực và tích cực nêu trên, thì mọi người cần tạo cho mình một cái thời khóa biểu để sử dụng một cách đúng nhất. Khai phá tất cả các điều tích cực của nền tảng trực tuyến này để đem lại một cách hiệu quả nhất. Chúng ta nên chọn lọc thông tin khi cập nhật tin tức. Nghiêm cấm sẻ những thông tin không chính thống gây hoang mang tới mọi người Không hùa theo vào việc “mạt sát”, bôi nhọ danh dự của bất cứ ai Đừng chia sẻ tất cả thông tin cá nhân của mình lên trên mạng xã hội Mạng xã hội đang ngày càng kiểm soát cuộc sống của chúng ta. Mặc dù mang lại rất nhiều điều tích cực, song những điểm hạn chế vẫn chưa thể khắc phục được. Hãy là một người sử dụng văn mình, kiểm soát được thời gian, ứng xử đúng mực để lan tỏa những điều tốt đẹp đến với cộng đồng.
mặt tiêu cực của công nghệ thông tin